Đinh Bộ Lĩnh nổi tiếng là vị tướng tài ba, phất cờ lau dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước. Nghĩa quân của ông chấm dứt tình trạng cát cứ kéo dài sau khi triều Ngô sụp đổ. Vậy, trên thực tế, tình trạng cát cứ của nước ta cuối thời Ngô kết thúc vào năm nào?
Tình hình nước ta sau khi Ngô Quyền mất
Năm 938, Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán tại cửa sông Bạch Đằng, lập nên triều đại nhà Ngô, mở ra thời kỳ độc lập, tự chủ cho đất nước ta. Sau hơn năm 06 nhiếp chính, năm 1944, Ngô Quyền mất, ngai vàng bị bỏ ngỏ. Lúc này, do hai con trai của ông là Ngô Xương Văn và Ngô Xương Ngập còn quá trẻ tuổi, chưa thể cai trị và giữ vững vương quyền, triều đình trở nên lục đục, đấu đá, tranh giành ngai vàng. Lúc này, viên quan Dương Tam Kha đã thừa cơ đoạt quyền, xưng là Bình Vương. Đất nước chìm vào rối ren, các phe phái trong triều giương cờ nổi loạn khắp nơi.
Đến năm 950, sau khi nhận được sự ủng hộ của nhiều tướng sĩ, Ngô Xương Văn đem quân lật đổ Dương Tam Kha, lên ngôi vua và mời Ngô Xương Ngập về cùng cai quản đất nước. Tuy đất nước đã có vua nhưng ngọn lửa tranh quyền, đoạt vị giữa các phe phái vẫn cháy âm ỉ. Ngay sau khi Ngô Xương Văn mất (năm 965), ngọn tranh giành chính quyền bùng lên nhanh chóng, đất nước rơi vào tình trạng cát cứ, loạn lạc, hỗn chiến giữa các phe phái xảy ra triền miên. Ruộng đồng, làng mạc bị tàn phá nặng nề, đời sống nhân dân khổ cực; các nước láng giềng đang lăm le xâm lược.
Thời niên thiếu của vị tướng cờ lau Đinh Bộ Lĩnh
Đinh Bộ Lĩnh là con trai của Đinh Công Trứ, vốn là một thiếu niên tài năng, đức độ. Sinh ra và lớn lên tại làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng (thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay), từ nhỏ, Đinh Bộ Lĩnh đã say mê chơi trò tập trận giả, lấy cây lau làm cờ xướng binh khởi nghĩa. Cũng nhờ vậy mà trí thông minh và tài năng thiên bẩm của ông sớm được phát hiện, có cơ hội trau dồi. Đinh Bộ Lĩnh cũng rất được người đời coi trọng.
Chứng kiến cảnh đất nước chia bè kéo phái, chiến tranh triền miên, nhân dân lầm than, khổ cực cùng với lòng yêu nước và hừng hực trí trai trẻ, Đinh Bộ Lĩnh đã sớm mong muốn giương cờ khởi nghĩa, thống nhất giang sơn, đòi lại yên bình cho đất nước.
Nhận được sự tín nhiệm của đông đảo nhân dân, Đinh Bộ Lĩnh được tôn lên làm Tù trưởng. Sau đó, ông từng bước tập hợp nghĩa quân, củng cố lực lượng, vũ khí chiến đấu, lên kế chiến thuật cụ thể, chuẩn bị kỹ càng sẵn sàng đem quân đi dẹp loạn.
Sử viện: tình trạng cát cứ của nước ta cuối thời Ngô kết thúc vào năm nào?
Trong tình trạng ngai vàng bỏ trống, các tướng sĩ trong triều đều mong muốn giành đất đai, thuộc địa về phía mình, xây dựng cát cứ riêng và không ngừng chiến tranh qua lại để mở rộng địa bàn. Đến năm 966, đất nước lúc này đã tồn tại 12 sứ quân chiếm đóng tại 12 địa phương khác nhau.
Sau thời gian âm thầm chuẩn bị, Đinh Bộ Lĩnh bước đầu hành động. Ông liên kết với sứ quân Trần Lãm cùng sứ quân Phạm Bạch Hổ cùng hợp tác đánh chiếm các sứ quân khác, bắt đầu công cuộc dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước. Đề cao chiến thuật “chậm mà chắc”, Đinh Bộ Lĩnh cho quân tiến đánh từng địa bàn một, lần lượt thâu tóm tất cả các cứ. Đến cuối năm 967, ông và nghĩa quân đã hoàn thành sứ mệnh của mình, chấm dứt tình trạng cát cứ kéo dài, giành lại bình yên cho đất nước. Cũng trong năm đó, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Đinh Tiên Hoàng đế, đóng đô tại Hoa Lư, đặt tên nước là Đại Cồ Việt.
Cuộc khởi nghĩa dẹp loạn 12 sứ quân của Đinh Bộ Lĩnh có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Hy vọng rằng, thông qua những chia sẻ trên đây, quý bạn đọc có thể trả lời cho câu hỏi: “tình trạng cát cứ của nước ta cuối thời Ngô kết thúc vào năm nào?” cũng như hiểu thêm về lịch sử nước nhà.